Theo Forbes, tính theo giá trị đồng USD, từ năm 2006 đến 2021, tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt gần 371%, tăng gần 5 lần.
Trong bài phân tích toàn diện về thu nhập bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người) của Việt Nam công bố ngày 23/11, Forbes cho rằng kinh tế thế giới đã trải qua giai đoạn khó khăn kể từ khi đại dịch bùng phát. Nhưng trong bối cảnh kinh tế bị gián đoạn, nhiều quốc gia vẫn ghi nhận mức tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người ấn tượng từ 2020 – 2021, trong đó, Forbes đặc biệt chú trọng đến Việt Nam.
GDP bình quân đầu người tăng ấn tượng
Dẫn số liệu mới nhất từ Ngân hàng Thế giới, Forbes cho biết GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2021 là 3.694,02 USD. Con số này tăng từ 3.425,09 USD vào năm 2019 – năm trước khi xảy ra đại dịch và 3.526,27 USD vào năm 2020.
“Việt Nam là một trong số ít quốc gia vượt qua khá tốt các tác động kinh tế của đại dịch”, Forbes đánh giá và cho biết thêm thực tế là GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng mạnh kể từ năm 2005.
Theo tạp chí này, từ năm 2019 đến 2020, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 2,01%, chậm hơn so với mức 6,13% của giai đoạn 2018-2019, tuy nhiên, mức tăng này vẫn khả quan.
(Biểu đồ: Nhật Linh)
Về tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người giai đoạn 2020-2021, tốc độ tăng là 1,76% nếu tính theo giá trị nội tệ và 4,76% nếu tính theo giá trị USD.
Tính theo giá trị đồng USD, từ năm 2006 đến 2021, tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam lên tới gần 371%. Trên thực tế, mức tăng trưởng 371% có nghĩa là GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gần gấp 5 lần. Tuy nhiên, Forbes cho rằng mức tăng ấn tượng này sẽ có ý nghĩa hơn khi xem xét quá trình phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn này.
Kinh tế Việt Nam thay đổi thế nào trong 15 năm qua?
Sử dụng dữ liệu từ Đài quan sát mức độ phức tạp kinh tế (OEC), Forbes đã phân tích nền kinh tế Việt Nam đã thay đổi như thế nào trong 15 năm qua.
Trở lại năm 2006, mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là dầu thô, chiếm 16,9% kim ngạch xuất khẩu, tương đương 7,72 tỷ USD. Nhưng đến năm 2020, xuất khẩu dầu thô sẽ chỉ chiếm 0,54% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tương đương 1,64 tỷ USD.
Thay vào đó, thiết bị phát sóng trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, chiếm 14% tổng kim ngạch, đạt 42 tỷ USD. Xuất khẩu điện thoại đứng thứ hai, chiếm 7,14% tổng kim ngạch xuất khẩu, tương ứng với 21,4 tỷ USD. Xuất khẩu linh kiện điện tử đứng thứ ba, chiếm 6,48% trong tổng kim ngạch, tương ứng với 19,4 tỷ USD. Cả ba mặt hàng xuất khẩu hàng đầu này đều thuộc nhóm máy móc thiết bị và hiện là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam.
Sự tương phản giữa bức tranh xuất khẩu của Việt Nam năm 2020 và 2006 là rất rõ ràng. Nếu như năm 2006, thiết bị phát sóng chỉ chiếm 0,09% tổng kim ngạch xuất khẩu, với vỏn vẹn 41 triệu USD thì đến năm 2020 con số này là 42 tỷ USD.
Các thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam cũng tăng trưởng rõ rệt kể từ năm 2006. Năm 2006, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, chiếm 19,8% tổng giá trị xuất khẩu, tương đương 9,02 tỷ USD. Đến năm 2020, Hoa Kỳ vẫn nằm trong top thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam nhưng tỷ trọng đã tăng lên 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (tương đương 77 tỷ USD).
Một số thị trường xuất khẩu khác như Trung Quốc cũng tăng khá. Nếu như năm 2006, xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chiếm 5,74% tổng kim ngạch (tương đương 2,62 tỷ USD) thì đến năm 2020, Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ 2 trong các thị trường xuất khẩu. hàng đầu của Việt Nam về xuất khẩu với 16,5% tổng kim ngạch (tương đương 49,4 tỷ USD).
Tuy nhiên, xuất khẩu của Nhật Bản giảm sút. Nếu như năm 2006, xuất khẩu sang Nhật Bản chiếm 12,4% (tương đương 5,68 tỷ USD) thì đến năm 2020 chỉ còn 6,79% trong tổng kim ngạch. Tương tự, xuất khẩu sang Australia cũng giảm mạnh, từ 8,32% năm 2006 xuống còn 1,35% năm 2020.
Trong 10 năm qua, từ 2010 – 2020, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất của Việt Nam với giá trị xuất khẩu tăng thêm 62,3 tỷ USD, tương ứng tăng 424%. Thị trường xuất khẩu tăng nhanh thứ hai là Trung Quốc với kim ngạch tăng 42,7 tỷ USD nhưng tính theo tỷ lệ phần trăm tăng là 631%. Đứng thứ ba là Hàn Quốc, trong 10 năm qua xuất khẩu sang thị trường này đã tăng 16,4 tỷ USD, tương ứng tăng 503%.
Theo Forbes, tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam phần lớn là nhờ nền kinh tế Việt Nam ngày càng đa dạng hóa. Theo OEC, trong 20 năm qua, Việt Nam đã tăng từ vị trí thứ 83 lên vị trí thứ 61 trong Chỉ số phức hợp kinh tế (ECI), một chỉ số đánh giá sự đa dạng và tinh vi của năng lực sản xuất thể hiện trong hàng xuất khẩu của mỗi quốc gia.
Xếp hạng độ phức tạp kinh tế của Việt Nam tốt hơn nhiều so với các nước láng giềng như Campuchia (xếp thứ 102) hay Lào (xếp thứ 104). Năm 2017, mức độ phức tạp kinh tế của Việt Nam cũng vượt qua Indonesia và duy trì ở trên kể từ đó.
Ngay cả khi phân tích GDP bình quân đầu người của Việt Nam tính theo đồng đô la năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn rất ấn tượng. Tính theo giá trị USD năm 2015, GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 là 1.650,63 USD, năm 2021 là 3.373,08 USD, tương đương mức tăng 104,4% trong 15 năm.
“Về tổng thể, Việt Nam có mức tăng trưởng GDP bình quân đầu người ấn tượng nhất so với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Xu hướng này phản ánh sự năng động và phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua”, Forbes đánh giá.
@ Vietnamnet