Chúng ta xôn xao về phim thị trường, nhạc ăn liền, thơ quấy phá, văn đọc trộm … nhưng quên bẵng rằng, hội họa Việt Nam từng có những đỉnh cao rực rỡ, nhất là thế hệ thành tài từ Trường Cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Mình say mê đến cả buổi ở Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trước những không gian, sắc màu, thần thái, và phải viết về những danh gia – kiệt tác của đất nước mới được.
Xưa nay, trong giới hâm mộ tranh Việt, luôn có những Bộ Tứ kiệt xuất như là Tứ kiệt Đông Dương, Tứ Trụ Việt Nam, và Bộ Tứ huyền thoại. Mình cứ liệt kê ra đây, đúng nhận sai cãi, mà quả thật trăm hoa đua nở, chẳng ai kém ai.
Tứ kiệt Đông Dương toàn các siêu nhân tranh đắt nhất thị trường đấu giá: Mai Trung Thứ – Lê Phổ – Vũ Cao Đàm – Lê Thị Lựu. Đây là Bộ tứ Hải ngoại đều tốt nghiệp Mỹ Thuật Đông Dương, định cư và thành danh ở nước ngoài, những tác phẩm tham gia đấu giá đạt tới những ngưỡng giá rất trầm trồ và là niềm tự hào của tranh Việt với các bạn bè ngũ châu thất bể, đặc biệt nhất là bức “Chân dung Madam Phương” (1930) hoành tráng nhưng rất dịu dàng và gần gũi của Mai Trung Thứ. Bức chân dung sơn dầu khổ lớn vẽ một cô gái trong trang phục áo dài cổ điển, tóc vấn khăn, đi guốc cao, lối vẽ giản dị chân phương. Bức tranh còn thể hiện sự ngưỡng mộ sâu sắc của Mai Trung Thứ đối với người mẫu, một quý cô được đồn đại là ý trung nhân của ông. Có lẽ trên đời này cũng chỉ có 1 nàng Phương như vậy, không có bản sao bản nhái, nên mới là bức tranh giá trị nhất của Việt Nam, hơn 3 triệu USD.
Nếu Tứ kiệt Đông Dương là thế hệ đầu giúp định hình sự phát triển của ngành hội họa, thì Tứ Trụ Việt Nam biến hóa thành những cây đại thụ tỏa bóng mát, bắt rễ cho nền hội họa Việt Nam. Bộ Tứ đấy bao gồm Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, và Trần Văn Cẩn hoặc “nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn.” Họ cũng tốt nghiệp cùng trường với lứa đầu tiên, cũng thành danh lừng lẫy, nhưng họ chọn sống, cống hiến, và chiến đấu trên quê hương. Tranh của họ ít thấy giá, dù toàn kiệt tác, bởi đa phần đều đã thành Bảo vật quốc gia. Một bức tranh của Tứ Đại Việt Nam mà mình thích nhất là “Thiếu nữ bên hoa huệ” của Tô Ngọc Vân (1943).
Bức “Thiếu nữ bên hoa huệ” mô tả cảnh một thiếu nữ mặc áo dài trắng đang nghiêng đầu một cách đầy duyên dáng, khơi gợi về phía lọ hoa huệ trắng. Hình dáng cô gái kết hợp với những chi tiết và màu sắc xung quanh tạo thành một hình khối giản dị, toát lên một nét buồn vương vấn, dịu nhẹ. Những bông huệ cắm trong lọ bên cô gái không phải là loại hoa huệ bông nhỏ mà ta thường dùng trong các ngày rằm mà là hoa huệ tây. Với bố cục chặt chẽ, hoàn hảo, cách sử dụng màu điêu luyện, bức “Thiếu nữ bên hoa huệ” đã thể hiện được cái mềm mại gợi cảm ở đường cong trên đùi thiếu nữ và nhất là cách dùng dao gạt bớt lớp sơn phía trên để lộ ra lớp sơn hồng bên dưới tạo nên sắc ửng hồng trên má thiếu nữ. Bên cạnh những giá trị nghệ thuật, bức sơn dầu này còn thể hiện cho một thú vui tao nhã của người Hà Nội xưa, thú chơi hoa loa kèn trắng, loài hoa nở rộ vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 hàng năm.
Đến đời thứ 3, Việt Nam ta có “phố Phái, gái Liên.” Đúng rồi các bạn ạ! Thế hệ tiếp theo vẫn là những cổ thụ, nhưng họ phát huy cá tính và tài năng theo cách rất riêng, và trăm hoa đua nở mới tạo nên nền nghệ thuật rực rỡ. Ta có Nguyễn Tư Nghiêm, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, và Bùi Xuân Phái hoặc “Nghiêm – Liên – Sáng – Phái.” Mình thích nhất những nét vẽ sơn dầu giản dị của cụ Phái trong tác phẩm “Xe bò trong phố cổ” (1972).
Tranh phố của Bùi Xuân Phái vừa cổ kính lại rất hiện thực, thể hiện rõ hồn cốt của phố cổ Hà Nội những thập niên 50, 60, 70. Các mảng màu trong tranh Phái thường có đường viền đậm nét, phố không những trở thành chính nó mà còn gần hơn với con người, từ bề mặt đến cảnh quan đều có chiều sâu bên trong. Ngắm tranh phố cổ của Phái, họa sĩ đã gửi gắm những kỉ niệm, những hoài cảm cùng nỗi buồn man mác, tiếc nuối bâng khuâng trên từng nét vẽ, như điềm báo về sự đổi thay và biến mất của từng mái nhà, từng con người mang hồn phách xưa cũ.
Trên bức tranh lịch sử của ngành hội họa Việt Nam, nổi bật những hình tượng vĩ đại được gọi là “Tứ kiệt Đông Dương,” “Tứ Trụ Việt Nam,” và “Bộ Tứ huyền thoại.” Những danh nhân này không chỉ là những tài năng nghệ thuật lỗi lạc, mà còn là biểu tượng của sức mạnh sáng tạo và tinh thần dũng cảm trong nghệ thuật.
Nếu nói về người mẫu của tranh, thì các bạn trẻ ở Việt Nam đừng vội nhận vơ mình trùng tên người trong tranh vì tâm hồn của 1 kiệt tác, cũng phải từ 1 người mẫu nền nã, tinh tế. Và bức tranh cũng bắt được cái thần thái “cực phẩm” của cả một đời người. Bạn tên là Thúy, nhưng chính “em Thúy” (1943) năm 24 tuổi đã mãi chỉ còn mơ về ánh mắt trong veo, về khí chất thần tiên của cô bé 8 tuổi, hãy chiêm ngưỡng nó chân tình. Đừng so sánh nó với những người đời của cơm áo gạo tiền, đó là sự bôi bác không hề vô hại. Cao quý thì cần phải nâng niu, không được suồng sã hóa, bạn ạ. Các danh gia có được đẳng cấp, là phải vượt qua cái tầm thường, đừng cào bằng bạn nhé.
Không phải tự nhiên các cụ dành giấy hạng siêu phẩm (dó, điệp) cho tranh vẽ, giấy hạng thô (giấy sề) cho vàng mã đâu. Nhìn cảnh làng Đông Hồ chỉ còn 2 nhà làm tranh, bị bao vây giữa trùng trùng những hàng mã in tiền, mà mình cảm thấy cần thắp sáng lại tình yêu nghệ thuật.
Tranh Việt đẹp, đất nước Việt đẹp, con người Việt đẹp. Nhưng tâm hồn Việt đừng lãng quên.